Tết thường bắt đầu từ
30 tháng chạp ( ít nhất đến mừng 6-7 mới hết Tết) ở một số nơi, người ta ăn Tết
vui chơi, hội hè đình đám… kéo dài đến hết tháng giêng. Thế nhưng, việc chuẩn bị
có khi bắt đầu từ những ngày đầu tháng chạp và phải hoàn tất trước buổi trưa
ngày 30, Đây cũng là cách con cháu tưởng nhớ, lòng biết ơn đối với ông bà tổ
tiên của mình. Tùy vào điều kiện của mỗi gia đình mà sắp xếp chuẩn bị mâm cỗ lớn để cúng đón rước ông bà buổi trưa hoặc chiều 30 và
mâm cỗ vào ngày mùng 3 Tết để tiễn ông
bà đi gọi là cúng đưa.
Do điều kiện địa lý, thói quen trong ăn uống , phong tục của
từng miền. Nên mỗi miền có mâm cỗ Tết khác nhau. Ở miền Bắc gọi là mâm cỗ, miền
Trung gọi là mâm cộ, miền Nam gọi là mâm cơm cúng ông bà.
Mâm cỗ Tết truyền thống miền Bắc, thường thì 4 bát, 4 dĩa.
Cỗ lớn thì 6 bát, 6 dĩa, 8 bát 8 dĩa… có khi mâm cỗ lớn phải xếp 2-3 tầng . Trước
khi dâng cúng tổ tiên thì dùng giấy
trang kim đậy các bát, dĩa thức ăn lại cho vệ sinh tinh khiết và đẹp mắt. Bốn
bát, bốn dĩa gồm : Thịt chân giò hầm
măng lưỡi lợn, bát bóng thả, bát miến,
bát mộc. Bốn dĩa gồm: Dĩa thịt gà, dĩa thịt lợn, dĩa giò lụa, dĩa chả quế. Rồi
có thể thêm những dĩa như: dĩa giò thủ,
dĩa xào hạnh nhân, dĩa lạp xưởng khô, dĩa trứng muối, dĩa cá kho riềng, dĩa nộm
sứa hoặc nộm rau củ…
Bánh Tết ở miền Bắc phổ biến nhất là bánh chưng ăn kèm dưa
hành. Món tráng miệng đặc trưng thì có mứt sen, mứt quất, mứt gừng, hồng khô, ô
mai mơ, gừng… Đặc biệt món chè kho có tính giải độc và giải rượu.
Mâm cơm cúng ông bà ngày 30 Tết ở miền Nam, luôn luôn có thịt
kho nước dừa với trứng hoặc cá lóc kèm dưa giá, canh khổ qua nhồi thịt. Theo
dân gian khổ qua là món ăn mong đợi sự khổ cực trong năm cũ qua đi, để tiếp đón
điều tốt đẹp trong năm mới. Các món nguội như gỏi ngó sen, tai lợn ngâm giấm,
tôm khô, củ kiệu, giò lợn nhồi, lạp xưởng tươi, phá lấu, nem chả. Miền Nam phổ
biến nhất là bánh tét ăn kèm cà rốt, củ cải ngâm nước mắm.
Món tráng miệng có các loại mứt trái cây như: mứt dừa, mứt
khoai, mứt mảng cầu, mứt củ năng, kẹo thèo lèo, kẹo chuối… Ngoài ra còn có món
tráng miệng rất đặc sắc là cơm rượu.
Mâm cỗ Tết của miền Trung thì có các món nước như gà tiềm hạt sen, canh hoa kim châm với tôm thịt,
giò lợn hầm.
Các món mặn như tôm rim, thịt kho tàu, cuốn ram, thịt lợn,
gà rán, thịt phay, nem chả, tré, thịt ngâm nước mắm… Rồi có các món như như măng khô xào thịt, mít trộn…
Món tráng miệng rất phong phú có mứt cam, quất, mút sen, mứt
gừng miền Bắc có mứt me mứt dừa như miền Nam. Ngoài ra có mứt củ bình tinh, mứt củ khoai mài, mứt củ sen, mứt
chanh, mứt khế. Bánh thì có bánh sen tán, bánh măng, bánh mặn, bánh thuẩn, bánh
thục linh…
Mâm cỗ miền Trung trong dân gian thì có cả bánh chưng và
bánh tét. Nhưng mâm cỗ cúng tiến trong cung đình thì chỉ dâng cúng bánh chưng chứ bánh tét thì không làm phẩm vật để dâng
cúng tổ tiên.
Khác với mâm cỗ để cúng tế trời đất, thần thánh vua chúa…
Như vào những dịp nhà vua tế trời ở đàn Nam Giao hoặc tế các vị tiên đế ở Thế
miếu… Vật phẩm là bộ Tam sinh ( trâu, lợn, dê)
để nguyên con chưa qua chế biến, lễ vật này còn gọi là cỗ Thái lao. Hoặc
ngoài dân gian khi cúng đất thì bộ tam sinh
là miếng thịt lợn, con cua, cái trứng chỉ luộc chín chứ không chế biến.
Còn mâm cơm để cúng ông bà trong ba ngày
Tết là mâm cỗ có nhiều món ăn được chế
biến gồm đủ các thành phần: Thượng cầm, hạ thú, rồi các loài thủy tộc dưới nước…
Trong dân gian mâm cơm như vậy được gọi là hào soạn. Trong cung đình mâm cỗ để
tiến cúng ở miếu điện gọi là ngọc soạn, gồm các món ăn được chế biến từ các
thành phần sơn hào hải vị quý hiếm trong
cả nước, được chế biến công phu và trình bày kiểu cách tỉ mỉ.
Các món ăn như là chi Sâm cầm nhồi yến, hải sâm nấu độn, vi
cá nấu rối, món bong bóng cá nấu đường, gân nai, nem công, chả phượng…
Món tráng miệng có các loại mứt như mứt nhân sâm, mứt bát bửu
làm từ các loại mứt quý và thịt lợn quay, mứt cam sành còn nguyên quả, mứt các
loại củ quả như bí đao, đu đủ, gừng, gọt tỉa thành hình bát bửu hoặc các con vật trong tứ linh như long, lân, quy, phụng rim
khô…
Bánh bò thường là loại bánh khô, làm từ loại ngũ cốc đóng trong khuôn chữ nhật có in hình
hoa mai, hoa đào hoặc chữ phúc- lộc- thọ… gói trong giấy ngũ sắc - như mang lời
chúc tốt lành đầu năm.
Ngoài ra còn có các loại bánh bắt hình các nhánh lộc, hoa
mai, hoa đào, các loại trái cây như quả phật thủ, lựu, đào, nhân sâm đem sấy
khô được xếp thành hình tháp trên quả bồng sơn son thếp vàng, hoặc bằng sứ men
lam để dâng cúng tổ tiên.
Bên cạnh những mâm hào soạn
ở ngoài dân gian và ngọc soạn trong chốn cung đình, thì ở miền Trung vào
nhưng ngày đầu năm, nhưng gia đình theo Phật giáo có mâm cơm chay ngày mùng một
gọi là mâm trai soạn để cúng tổ tiên.
Qua mâm cỗ ngày Tết của dân tộc chúng ta thấy rằng món ăn
Việt Nam rất đa dạng và phong phú. Từ các món ăn dân dã như măng hầm, mít trộn…
cho đến các món ăn cao cấp được chế biến
bằng nguyên liệu trong nước. Có đủ sơn hào hải vị mà thế giới công nhận quý hiếm bổ dưỡng, như Yến sào, bào ngư, vi
cá…đó là những món ăn Việt Nam có từ lâu đời.
Trong mâm cỗ ba miền truyền thống trước đây , thường không
có món thịt bò. Sau này, khoảng đầu thế
kỷ XX , khi ảnh hưởng phương Tây tràn vào, thì các món ăn chế biến từ thịt bò mới
được phổ biến. Và trong mâm cỗ Tết ngày nay, bên cạnh những món ăn truyền thống thì có thêm những món ăn mới bổ sung, tiếp
thu các thức chế biến của nhiều nước trên thế giới như món thịt nấu rượu chát,
cà ri, ragu…
Nhìn chung mâm cỗ ngày Tết của ba miền có một vài điểm khác
biệt tùy theo địa phương. Nhưng đặc điểm căn bản mà miền nào cũng phải có trong mâm cỗ là cơm và xôi, đặc biệt là bánh
chưng, bánh tét ăn kèm với các loại dưa muối đặc trưng của từng miền – là loại
bánh Tết của người Việt Nam, mặc dù hình thức và ý nghĩa khác nhau, như bánh
chưng tượng trưng cho Đất là âm, bánh tét khi cắt lát từng khoanh tròn tượng trưng cho
Trời là dương nhưng nguyên vật liệu gần như không có gì khác biệt. Đó là đặc điểm
chung nhất phản ánh bản sắc văn hóa, lịch sử, địa lý… của một đất nước có nền
văn minh lúa nước như chúng ta.
Vào các ngày lễ, Tết,
theo phong tục truyền thống của dân tộc ta, một trong nhưng đồ lễ không thể thiếu
trên bàn thờ đó là gà trống luộc. Trong trường hợp không có gà trống phải dùng
lễ khác thay vào, đó là chân giò lợn. Theo tục xưa khi làm lễ khấn thì văn khấn
phải đọc thành lời, nói đầy đủ các lễ vật bằng từ Hán Việt như : Phù lưu ( trầu cau), kim ngân ( tiền
vàng), tửu ( rượu) hương đăng ( hương nến). Chính vì vậy khi cúng có lễ là chân
giò lợn người ta sẽ khấn là trư túc (
trư là lợn túc là chân) nhưng “ trợn” lợn
đồng âm với “ chư” ( mọi thứ ) còn túc ( chân) còn có nghĩa là sung túc, no
nê. Trong các lễ vật cúng vào dịp, lễ, Tết
nhất là ngày Tết, khi cúng chân giò người
Việt thể hiện mong ước trong năm mới mọi
thứ đều đầy đủ, sung túc tốt lành và phát triển./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét