Ngày
thương binh liệt sĩ (ngày 27 tháng 7) là một ngày Lễ kỉ niệm được tổ chức hàng
năm nhằm tưởng niệm về những người thương binh, liệt sĩ của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã hi sinh, mất mát qua những cuộc chiến tranh nhằm bảo vệ nền
độc lập của nước Việt Nam, tự do cho người Việt Nam và Nhà nước Việt Nam hiện
hành. Ngày Lễ này được ghi nhận như là một biểu hiện của truyền thống uống nước
nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa, ăn quả nhớ kẻ trồng cây ở Việt Nam.[1] Trong ngày
này, chính quyền các cấp, các đoàn thể mà trọng tâm là Hội cựu chiến binh tổ chức
nhiều hoạt động sôi nổi, rầm rộ, chủ yếu là việc các cá nhân, tổ chức, nhà chức
trách thăm và tặng quà cho các gia đình thương binh, liệt sĩ, dâng hương tri ân
tại các Nghĩa trang liệt sĩ…
Hoàn
cảnh ra đời:
Sau
Cách mạng tháng tám 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời nhưng người
Pháp đã quay lại Đông Dương. Khi vào thay thế quân đội Tưởng Giới Thạch ở Bắc Bộ,
quân đội Pháp và Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã có những vụ đụng độ với
nhau với những thiệt hại về tính mạng cho những người lính, đặc biệt là về phía
Việt Nam. Để góp phần xoa dịu nỗi đau mất mát của gia đình của những người đã
chết, Chính quyền Việt Nam đã thực hiện nhiều hình thức để bù đắp những thiệt hại
này. Họ xúc tiến vận động thành lập một tổ chức có tên gọi là Hội giúp binh sĩ
tử nạn
Đầu
năm 1946, Hội giúp binh sĩ tử nạn (sau đó đổi tên Hội giúp binh sĩ bị thương)
được thành lập ở Thuận Hoá (Bình Trị Thiên) ở Hà Nội và một số nơi khác. Chủ tịch
Hồ Chí Minh được mời làm hội trưởng danh dự của hội này. Chiều ngày 28 tháng 5
năm 1946, Hội Giúp binh sĩ bị nạn tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng tại
Nhà hát lớn Hà Nội tại thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh đã tới tham dự. Chiều
ngày 11 tháng 7 năm 1946, cũng tại Nhà hát này đã có một buổi quyên góp quần
áo, giày mũ cho binh lính ở ngoài chiến trường, mở đầu cuộc vận động mùa đông
chiến sĩ. Tại đây, Hồ Chí Minh đã cởi chiếc áo rét đang mặc để tặng binh sĩ.
Ngày
19 tháng 12 năm 1946, Hà Nội chính thức phát động chiến tranh với Pháp, chiến
tranh lan rộng ra nhiều vùng. Số người bị thương và chết tăng lên nhanh chóng
do sự chênh lệch về trang bị vũ khí cũng như những chiến thuật chiến đấu. Đời sống
của binh lính lúc đó, nhất là những binh sĩ bị thương gặp nhiều khó khăn, thiếu
thốn do tình cảnh khó khắn của Chính phủ Việt Nam bấy giờ. Trước yêu cầu đó,
cùng với việc kêu gọi giúp đỡ thương binh gia đình tử sĩ, vào năm 1947 Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL ngày 16 tháng 8 năm 1947 Quy định chế độ
hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng
định vị trí quan trọng của công tác thương binh liệt sĩ đối với cuộc chiến
tranh của Việt Nam.
Ngày
Lễ chính thức ra đời:
Để
chỉ đạo công tác thương binh tử sĩ trong cả nước, ngày 26 tháng 2 năm 1947,
Phòng thương binh thuộc Chính trị Cục, quân đội quốc gia Việt Nam được thành lập.
Đầu tháng 7 năm 1947 Ban Vận động tổ chức Ngày Thương binh toàn quốc cũng được
thành lập
Cùng
thời gian này, tại xóm Bàn Cờ, xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, các
đại biểu Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội Phụ nữ cứu quốc, Trung ương Đoàn
Thanh niên cứu quốc, cục Chính Trị Quân Đội quốc gia Việt Nam, Nha Thông tin
tuyên truyền và một số địa phương đã dự một cuộc họp do cục Chính Trị Quân Đội
quốc gia Việt Nam tổ chức.
Nội
dung cuộc họp là thực hiện chỉ thị của Hồ Chí Minh chọn ngày kỷ niệm Thương
binh Liệt sĩ và bảo vệ công tác thương binh liệt sĩ. Tại cuộc họp này, theo đề
nghị của đại diện Chính trị Cục quân đội Quốc gia Việt Nam, sau khi cân nhắc
nhiều mặt, hội nghị nhất trí đề nghị Trung Ương lấy ngày 27 tháng 7 năm 1947
làm ngày thương binh liệt sĩ – ngày toàn dân cùng thể hiện đạo lý uống nước nhớ
nguồn và các đại biểu đã nhất trí chọn ngày 27 tháng 7 hàng năm là ngày Thương
binh toàn quốc là dịp để dân chúng tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái và tỏ lòng yêu mến
thương binh.
Ngày
27 tháng 7 năm 1947, Ngày thương binh toàn quốc, mở đầu bằng cuộc mít tinh quan
trọng đã được diễn ra tại xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên (phía Việt
Nam cho biết có khoảng 2.000 người tham gia). Tại đây Ban tổ chức đã cử đại diện
Chính trị Cục Quân đội Quốc gia Việt Nam trịnh trọng đọc thư của Hồ Chí Minh gửi
cho Ban Thường trực của Ban Tổ chức ngày thương binh toàn quốc. Hồ Chí Minh
cũng đã gửi tặng một chiếc áo lụa, một tháng lương và một bữa ăn của nhân viên
trong Phủ Chủ tịch.
Trong
thư, Hồ Chí Minh có viết:
Đang
khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ
tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe doạ, của
cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập, ai là người xung
phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta? Đó là
những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh....Thương binh là những người
đã hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, vì lợi ích của Tổ quốc,
của đồng bào mà các đồng chí đó bị ốm yếu....Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải
biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy
Tiếp
đó, nhân ngày 27 tháng 7 năm 1948, Hồ Chí Minh cũng có lời kêu gọi:
Khi
nạn ngoại xâm ào ạt đến, nó như một trận lụt to. Nó đe dọa tràn ngập cả non
sông Tổ quốc. Nó đe dọa cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản, chìm đắm cả bố mẹ, vợ
con của nhân dân ta. Trước cơn nguy hiểm ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước
ta đã dũng cảm xông ra mặt trận. Họ quyết tâm đem xương máu của họ đắp thành một
bức tường đồng, một con đê vững để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc,
làm hại đồng bào. Họ quyết hy sinh tính mệnh để giữ tính mệnh đồng bào. Họ quyết
hy sinh gia đình và tài sản họ để bảo vệ gia đình và tài sản đồng bào. Họ quyết
liều chết chống địch để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Họ là những chiến sĩ anh
dũng của chúng ta. Trong đó có người đã bỏ lại một phần thân thể ở mặt trận, có
người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là thương binh, đó là tử sĩ
Từ
đó, đến ngày 27 tháng 7 hàng năm, trong thời gian cầm quyền, Hồ Chí Minh đều gửi
thư thăm hỏi, động viên các thương binh, gia đình liệt sĩ và nhắc nhở mọi người
phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ. Từ năm 1947,
ngày Thương binh được tổ chức thường kỳ hàng năm. Năm nào vào dịp này, Hồ Chí
Minh cũng có thư và quà gửi cho các thương binh và các gia đình liệt sĩ.
Tháng
7 năm 1954 sau trận Điện Biên Phủ với thắng lợi to lớn kèm theo thương vong nặng
nề[4], Chính quyền Việt Nam đặc biệt quan tâm giải quyết vấn đề binh sĩ, gia
đình liệt sĩ và công tác thương binh. Và từ năm 1955, ngày 27 tháng 7 ngày
Thương binh được đổi thành ngày Thương binh Liệt sĩ.[2]
Nhân
dịp kỉ niệm 50 năm ngày thương binh liệt sĩ, ngày 27 tháng 7 năm 1997, tại xóm
Bàn Cờ, xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, nơi chứng kiến sự ra đời của
ngày Thương binh toàn quốc, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội cùng Uỷ ban
nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã khánh thành khu kỉ niệm 27/7 và dựng bia kỉ niệm với
nội dung được khắc trên bia: Nơi đây, ngày 27 tháng 7 năm 1947, 300 cán bộ, bộ
đội và đại diện các tầng lớp nhân dân địa phương họp mặt nghe công bố bức thư của
Bác Hồ, ghi nhận sự ra đời của ngày Thương binh, liệt sĩ. Cũng nơi này, vào dịp
kỉ niệm 50 năm ngày thương binh liệt sĩ (Ngày 12 tháng 7 năm 1997) đã được Nhà
nước Việt Nam công nhận là di tích lịch sử.
Các
hoạt động trong ngày
Dâng
hoa tại nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn
Hàng
năm vào ngày 27 tháng 7, ở Việt Nam diễn ra nhiều hoạt động long trọng để chào
đón ngày Thương binh Liệt sĩ. Trong dịp này các nhà chức trách Việt Nam từ
trung ương đến địa phương thi nhau thăm, tặng quà cho các gia đình thuộc diện
chính sách, thắp hương, tảo mộ các liệt sĩ tại các nghĩa trang quốc gia và địa
phương, tổ chức nhiều chương trình văn nghệ kỷ niệm…
Theo
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành[11][12] thì mức tiền tặng quà cho các
đối tượng chính sách được quy định rất cụ thể. Theo đó có hai mức chi cơ bản gồm:
Mức
400.000 Việt Nam đồng: Mức chi này được áp dụng đối với các đối tượng gồm:
Bà
mẹ Việt Nam Anh hùng đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng.
Thân
nhân liệt sĩ đang hưởng trợ cấp tuất nuôi dưỡng hàng tháng.
Thương
binh, bệnh binh, người hưởng chính sách như thương binh bị suy giảm khả năng
lao động do thương tật, bệnh tật từ 81% trở lên (bao gồm cả những thương binh
loại B được công nhận từ trước ngày 31 tháng 12 năm 1993) đang được hưởng trợ cấp
ưu đãi hàng tháng.
Người
hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học suy giảm khả năng lao động từ
81% trở lên đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng.
Mức
200.000 Việt Nam đồng: Mức này được áp dụng đối với các đối tượng là:
Thương
binh, bệnh binh, người hưởng chính sách như thương binh bị suy giảm khả năng
lao động do thương tật, bệnh tật từ 80% trở xuống (bao gồm cả những thương binh
loại B được công nhận từ trước ngày 31 tháng 12 năm 1993) đang được hưởng trợ cấp
ưu đãi hàng tháng.
Thương
binh đang hưởng chế độ mất sức lao động.
Đại
diện thân nhân chủ yếu của liệt sĩ (bố, mẹ, vợ, chồng, con, người có công nuôi
dưỡng liệt sĩ).
Người
hoạt động kháng chiến nhiễm chất độc hóa học
http://vi.wikipedia
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét