Tết là lúc gia đình họp mặt đông đủ. Ai đi đâu xa cũng đều về
nhà khoảng 23 tháng Chạp để đón Tết với gia đình. Thông thường những phong tục
đón Tết với gia đình gồm có: đi thăm mộ tổ tiên, đưa ông Táo về trời, rước vong
linh ông bà, đốt pháo, xuất hành, xông nhà, chúc thọ, lì xì, thăm viếng và tục
kiêng cử….
Phong tục trang hoàng nhà cửa ngày tết:
Ðể chào đón năm mới, mọi gia đình đều dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ,
ngăn nắp, và trang hoàng lại căn nhà của mình cho thật đẹp. Có nhiều gia đình
còn sơn mới nhà, cửa. Các đồ dùng như bàn, ghế để tiếp khách, tủ thờ, tủ trong
phòng khách đều được lau chùi cho sạch bụi.
Các chân đèn, lư hương trên bàn thờ đều được chùi cho thật
bóng. Trên tường được treo, dán những loại tranh tết. Trong nhà hoặc ở sân trước
được chưng các loại hoa có màu sắc rực rỡ tươi sang như cúc vàng, vạn thọ, thược
dược, hoặc cây quất (tắc) với những chum trái vàng tươi. Đặc biệt có hai loài
hoa chỉ tết mới nở đó là mai vàng ở miền Nam và đào hồng, đỏ ở miền Bắc.
Ngoài hoa, còn có chưng trái cây, xếp thành một dĩa lớn. Bên
cạnh những trái cây thường có như chuối, cam, bưởi, quít, người ta còn chưng một
dĩa gồm mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, hay sung, và hai trái dưa hấu thật đều.
Không chỉ trang hoàng làm đẹp nhà cửa mà con người cũng được
làm đẹp. Ngày tết ai cũng ăn mặc quần áo mới, đẹp để tiếp khách hay đi ra đường.
Ngày nay, người Việt dù sống ở nước ngoài vẫn giữ tục lệ
này.
Phong tục cúng ông Táo:
Ông Táo là thần bếp, được Trời (hay Thượng đế) giao trách
nhiệm theo dõi tất cả những việc xảy ra trong nhà. Hằng năm, ngày 23 tháng chạp
ông Táo phải lên trời để trình cho Thượng Ðế các việc ghi nhận để Thượng Ðế xét
thưởng hay phạt gia chủ. Vào ngày 23 tháng chạp, nhà nào cũng quét dọn bếp sạch
sẽ và làm lễ cúng tiễn ông Táo về trời, nhờ ông báo cáo điều tốt để Trời cho
gia đình được bình an, may mắn trong năm tới. Theo lệ, lễ cúng ông Táo được đặt
trong bếp, và phải có một con cá chép vì tục truyền rằng ông Táo cỡi cá chép để
về trời. Ngày nay, tuy không còn lò bếp như xưa, nhưng người Việt vẫn giữ tục lệ
này.
Ngay cả những người Việt sống ở hải ngoại, nhiều gia đình vẫn
cúng ông Táo vào đúng ngày 23 tháng chạp. Các tờ báo, tạp chí, cuối năm đều có
thông lệ viết một bài báo cáo mọi việc trong năm, gọi là sớ Táo quân. Các buổi
liên hoan hay văn nghệ mừng xuân, người ta vẫn thường biểu diễn cảnh ông Táo về
thiên đình kể chuyện dân gian cho Thượng Ðế nghe.
Phong tục chúc tết:
Chúc tết hay mừng tuổi là nói những lời cầu mong tốt lành
cho người khác trong những ngày đầu năm. Trong gia đình, sáng mồng một thì con
cái chúc tết cho cha mẹ và ông bà (nếu cùng sống chung). Con cháu mà chưa có
gia đình thì cũng được ông bà, cha mẹ chúc lại và cho một món tiền đựng trong một
phong bì đỏ gọi là lì xì. Tiền lì xì thường là những tờ giấy bạc còn mới.
Trong ba ngày đầu năm, hay còn gọi là ba ngày tết, người ta
đi đến nhà bà con, bạn bè, để chúc những điều tốt lành cho năm mới. Ngay cả với
những người mới gặp cũng vẫn vui vẻ và chân thành chúc nhau. Khi có người quen
đến nhà chúc tết thì chủ nhà phải tiếp đãi vui vẻ, thân mật và đãi ăn uống. Tục
lệ này nói lên sự quan tâm và tình thân giữa con người với nhau, dù là thân hay
sơ. Ngày nay, tuy sống ở nước ngoài, người Việt vẫn giữ tục lệ đáng yêu này.
Mồng một thì tết nhà cha,
Mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy.
(nghĩa là ngày mồng một về chúc tết cha mẹ hay là bên nội,
ngày mồng hai về chúc tết cha mẹ vợ hay là bên ngoại; còn ngày mồng ba thì phải
đi chúc tết thầy giáo)
Phong tục cúng Tết:
Tết là một thời gian thiêng liêng trong đời sống người Việt.
Ðó là dịp đoàn tụ gia đình, cả người sống lẫn người đã chết. Những người đi
làm, đi học xa quê hương, xa gia đình đều tìm đủ mọi cách để về ăn tết với cha
mẹ, với gia đình.
Chiều ba mươi tết (hoặc ngày 29, nếu tháng chạp thiếu), người
ta cúng để mời linh hồn tổ tiên và những người thân đã mất về ăn tết cùng con
cháu. Ðúng giữa đêm trừ tịch, lúc chuyển từ năm cũ sang năm mới thì cúng giao
thừa để tiễn năm cũ và đón năm mới. Lễ cúng này được bày ngoài trời hay trước cửa
ra vào để cúng trời đất, cầu xin bình an may mắn. Thông thường, đúng giờ giao
thừa thì các chùa đều gióng chuông báo hiệu, và rồi mọi nhà đều đốt pháo. Ðến
ngày mồng ba thì cúng đưa tức tiễn đưa linh hồn những người mà ta đã mời về ăn
tết chung. Về mặt nghi lễ, ngày tết đến đây là chấm dứt. Ở nước ngoài, nhiều
gia đình Việt vẫn còn giữ tục lệ này, chỉ không thể đốt pháo mà thôi.
Phong tục biếu Tết:
Biếu tết là tặng quà cho người khác ăn tết. Ðây là dịp để nhớ
ơn những người đã từng giúp mình, để tỏ lòng yêu kính đối với người trên, tỏ
lòng quan tâm thương mến với họ hàng, bạn bè. Thông thường thì:
bà con thân thiết biếu tết lẫn nhau
con rể, con dâu biếu tết cha mẹ vợ/chồng
học trò biếu tết thầy cô
bạn bè biếu tết lẫn nhau
con nợ biếu tết chủ nợ
bệnh nhân biếu tết thầy thuốc
Việc biếu tết thể hiện tấm lòng biết ơn, hoặc yêu thương
chân thành, hoặc quan tâm thương mến, nên rất đáng quý. Ngày nay, chúng ta vẫn
còn giữ tục này. Tuy nhiên, đừng lợi dụng việc biếu tết này để hối lộ, mua chuộc.
Phong tục xuất hành:
Xuất hành là lần đi ra khỏi nhà đầu tiên trong năm mới. Người
ta tin rằng hướng đi này sẽ có ảnh hưởng tới tương lai của mỗi người trong năm
sắp tới. Cho nên, theo tuổi tác của mình, mỗi người xem sách lịch do những nhà
bói toán viết ra để chọn hướng đi và giờ bắt đầu cho thích hợp. Tục lệ này có vẻ
hoang đường, ngày nay nhiều người không còn tin theo. Hơn nữa, cửa nhà và đường
sá ngày nay được xây dựng theo phương hướng cố định, chúng ta khó mà chọn được
hướng đi như trong sách lịch nói.
Phong tục xông đất:
Xông đất là người đầu tiên bước chân vào nhà của người nào
đó. Người ta tin rằng tuổi tác của người khách đầu tiên có ảnh hưởng đến tương
lai của chủ nhà. Vì thế, từ trước tết, chủ nhà thường chọn người quen biết nào
mà có tuổi hợp với mình theo sách tử vi để mời họ đến xông đất cho mình. Tục lệ
này cũng có vẻ hoang đường, ngày nay nhiều người cũng không tin theo nữa.
Phong tục hái lộc:
Trong đêm giao thừa, người ta đi lễ chùa để cầu xin đức Phật
ban cho điều tốt lành trong năm mới. Sau đó, trong đêm tối trên đường về sẽ bẻ
đại một cành lá cây nào đó. Nếu bẻ được một cành lá tươi tốt, đầy đủ thì đó là
điềm may mắn cho suốt năm tới. Tục này ngày nay ít còn người làm vì bẻ cây của
người khác là việc phá hoại, vừa không tốt vừa có thể gây phiền toái về mặt pháp
luật.
Phong tục kiêng cử:
Kiêng (hay kiêng cử) là những điều không được làm. Trong những
ngày tết, những điều gì xấu đều phải kiêng. Sau đây là một số điều thường được
kiêng:
quét nhà, đổ rác (vì sợ quét, đổ đi những điều may mắn)
nói những điều tục tĩu
mặc quần áo trắng (sợ có tang)
nói tới những chuyện chết chóc, nói những điều xui xẻo
Những điều kiêng cử này đều có vẻ hoang đường, ngày nay tuy
nhiều người không tin nữa, nhưng một số đông khác vẫn còn giữ.
Tết Việt Nam chứa đựng và mang đậm bản sắc của dân tộc. Trải
qua bao biến động của lịch sử, của thời gian nhưng người Việt vẫn gìn giữ được
những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc trong ngày tết.
Chợ Tết
Chợ Tết có không khí khác hẳn với những phiên chợ thường
ngày trong năm. Mua sắm chuẩn bị cho ba ngày Tết thường không phải để “có cái
ăn” mà đó là thói quen, là dậy lên không khí ngày lễ hội. Chợ Tết được bố trí ở
những bãi đất rộng, có thể chợ được thành lập ngay nơi chợ thường ngày vẫn diễn
ra chuyện bán mua. Nhưng trong chợ Tết, gần như tất cả “món ngon vật lạ” đều được
bày bán. Không khí Tết thấm đượm thật sự vào những ngày này bởi cảnh người mua
hàng nặng trĩu giỏ.
Trong chợ Tết, người ta mới bày bán những thứ mà quanh năm
không thấy bán. Ví dụ như lá dong, lá chuối để gói bánh chưng, củ kiệu, đu đủ
làm dưa. Người ta bán những chiếc tháp làm bằng bánh in bao giấy màu, những chiếc
bánh ly bằng bột nếp hoặc bánh ngũ sắc dùng để chưng lên bàn thờ. Chợ còn bán
những thứ không ăn được, nhưng vô cùng cần thiết cho ngày Tết như phong bao lì
xì, giấy dán và bây giờ phong trào viết chữ ngày Tết đang phục hồi trở lại.
Nhưng cái thú mua sắm trong ngày Tết vẫn là chuyện đương nhiên, gần như không một
nhà nào lại không “đi sắm Tết”.
Dẫu rằng cách ăn, cách chơi Tết trải qua bao năm đã thay đổi
cho phù hợp với cuộc sống. Điều độc đáo ở chỗ là dù nhà giàu hay nghèo, nhu cầu
mua sắm ngày Tết là điều không thế thiếu.
Cây nêu ngày Tết
Cây nêu là một cây tre cao khoảng 5–6 mét. Ở ngọn thường
treo nhiều thứ (tùy theo từng địa phương) như vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng,
bầu rượu bện bằng rơm, hình cá chép bằng giấy (để táo quân dùng làm phương tiện
về trời), giải cờ vải tây, điều (màu đỏ), đôi khi người ta còn cho treo lủng lẳng
những chiếc khánh nhỏ bằng đất nung, mỗi khi gió thổi, những khánh đất va chạm
nhau tại thành những tiếng kêu leng keng nghe rất vui tai… Người ta tin rằng những
vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất, là để báo
hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu…
Vào buổi tối, người ta treo một chiếc đèn lồng ở cây nêu để
tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch còn cho đốt
pháo ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều không mạy.
Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng chạp, là ngày Táo quân về trời chính
vì từ ngày này cho tới đêm Giao thừa vắng mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội
này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Đến hết ngày mùng Bảy
thì cây nêu được hạ xuống.
Câu đối tết
Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các
nho học cho tới những người bình dân “tồn cổ” vẫn còn trọng tục treo “câu đối đỏ”
nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên
những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên thường được gọi chung là câu đối đỏ.
Hoa tết
Miền Bắc thường chọn cành đào đỏ để cắm trên bàn thờ hoặc
cây đào trang trí trong nhà, theo quan niệm người Trung Quốc, đào có quyền lực
trừ ma và mọi xấu xa, màu đỏ chứa đựng sinh khí mạnh, màu đào đỏ thắm là lời cầu
nguyện và chúc phúc đầu xuân.
Miền Trung và miền Nam lại hay dùng cành mai vàng hoặc cây
mai vàng hơn, màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển cao sang, màu
vàng còn tượng trưng cho vua (thời phong kiến). Màu vàng thuộc hành Thổ trong
Ngũ hành, theo quan điểm người Việt, Thổ nằm ở vị trí trung tâm và màu vàng được
tượng trưng cho sự phát triển nòi giống.
Ngoài hai loại hoa đặc trưng cho Tết là đào và mai, hầu như
nhà nào cũng có thêm những loại hoa để thờ cúng và hoa trang trí. Hoa thờ cúng
có thể như hoa vạn thọ, cúc, lay ơn, hoa huệ…; hoa để trang trí thì muôn màu sắc
như hoa hồng, hoa thủy tiên, hoa lan, hoa thược dược, hoa violet…Còn cây quất
thường được trang trí tại phòng khách, cây quất với lộc xanh mơn mởn, hoa trắng
lốm đốm, quả chín vàng ươm, tròn trịa, sum suê tượng trưng cho sự sinh sôi, thịnh
vượng, tràn đầy, viên mãn kết quả.
Màu của ngày Tết
Chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, màu chủ lực trong ngày Tết
vẫn là màu đỏ theo quan niệm màu đỏ là màu phát tài và may mắn. Ngày Tết của Việt
Nam ngập tràn màu đỏ: câu đối đỏ, phong bao lì xì đỏ, ruột quả dưa hấu đỏ, hạt
dưa nhuộm màu đỏ, quyển lịch đỏ. Người Việt Nam cũng thích chưng những loại hoa
ánh đỏ như hồng, mãn đình hồng, hoa đào v.v… Trước đây khi pháo còn được cho
phép đốt, đường xá ngập tràn trong màu đỏ của xác pháo nổ rân không ngớt kể từ
giao thừa đến rạng sáng tết, rồi nổ lẻ tẻ mãi cho đến khi nào hết “mồng” mới
thôi!
Trang phục có tông màu đỏ cũng được ưa chuộng để mặc Tết.
Lễ tổ tiên ngày tết
Người Việt Nam có tục hằng năm mỗi khi Tết đến lại trở về
sum họp dưới mái ấm gia đình. Nhiều người muốn được khấn vái trước bàn thờ,
thăm lại ngôi mộ hay nhà thờ tổ tiên. Nhiều người cũng muốn thăm lại nơi họ đã
từng sinh sống với gia đình trong thời niên thiếu. Đối với nhiều người xuất
thân từ nông thôn Việt Nam, kỷ niệm thời niên thiếu có thể gắn liền với giếng
nước, mảnh sân nhà. “Về quê ăn Tết” đã trở thành thành ngữ chỉ cuộc hành hương
về nơi cội nguồn.
Sắp dọn bàn thờ – Trong gia đình người Việt thường có một
bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay còn gọi ông Vải).
Tùy theo từng nhà, cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác
nhau. Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất.
Hai cây đèn tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, hương là tinh tú. Hai bát
hương để đối xứng, phía sau 2 cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy, với nhiều
bông nhỏ bao quanh bông lớn. Cũng có nhà cắm “cành vàng lá ngọc” (một thứ hàng
mã) với cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc, buôn bán lãi gấp 5, gấp 10 lần
năm trước. Ở giữa có trục “vũ trụ” là khúc trầm hương dưới dạng khúc khuỷu,
vươn lên trong bát hương.
Nhiều gia đình đặt xen giữa đèn và hương là hai cái đĩa để đặt
hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tùy mỗi miền có sự biến thiên các loại quả,
nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó), phía trước bát hương để một bát nước
trong, coi như nước thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống
gậy về với con cháu, dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới…
Trước bàn thờ nghi lễ truyền thống, ăn mặc lễ phục chỉnh tề,
cử chỉ nghiêm trang, dọn lòng trong sạch hướng tâm linh cúng lạy, nguyện sống xứng
đáng với ”bề trên”. Sự tín ngưỡng ấy đã góp phần tạo thêm giá trị nhân văn, đạo
đức truyền thống, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc. Sự thờ cúng tổ tiên mách
bảo con cháu giữ gìn đạo lý, nề nếp gia phong, sống tình nghĩa thủy chung, tu
thân, hướng thiện. Thực tâm cầu thị, yêu đồng loại, sâu nặng cội nguồn…
Dọn cúng mâm cao cỗ đầy. Tề tựu đông đủ. Với các món nấu nướng
gia truyền, dâng cúng là những sản phẩm nông nghiệp. Hoa tươi, rượu nếp gạo nấu
tinh khiết. Bánh trái, ngũ cốc, thịt gà, heo… Nấu nướng thơm ngon đặt lên cúng
trên bàn thờ. Để ông bà yên lòng nhìn thấy các cháu con biết giữ gìn truyền thống
”dĩ nông vi bản” và đem sức lao động cần cù làm ra thành quả từ lòng đất quê
hương của ông cha để lại. Đây chính là nét văn hóa truyền thống góp phần bảo tồn
di sản tinh thần và đạo đức trong đời sống con người lưu truyền tự ngàn xưa.
Xuất hành và hái lộc ngày Tết : “Xuất hành” là đi ra khỏi
nhà trong ngày đầu năm để đi tìm cái may mắn cho mình và gia đình. Trước khi xuất
hành, người ta phải chọn ngày, giờ và các phương hướng tốt để mong gặp được các
quý thần, tài thần, hỉ thần… Nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người
Việt còn có tục bẻ lấy một “cành lộc” để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là
tục “hái lộc”. Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si… là những loại
cây quanh năm tươi tốt và nẩy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng
chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc thường đem về cắm ở bàn
thờ. Khác với miền Bắc, miền Trung không có tục hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây
cối trong các đền chùa ở miền Trung vẫn giữ nguyên lá xanh biếc suốt cả mùa
xuân.
Để gắn kết tình cảm gia đình, họ hàng , làng xóm những lời
chúc tết thường là sức khỏe, phát tài phát lộc, gặp nhiều may mắn, mọi ước muốn
đều thành công…; những người năm cũ gặp rủi ro thì động viên nhau “tai qua nạn
khỏi” hay “của đi thay người” nghĩa là trong cái họa cũng tìm thấy cái phúc, hướng
về sự tốt lành.
Chúc Tết: Sáng mồng Một Tết còn gọi là ngày Chính đán, con
cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ Tiên và chúc tết ông bà, các bậc huynh
trưởng. Theo quan niệm, cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổị, bởi vậy
ngày mồng Một Tết là ngày con cháu “chúc thọ” ông bà và các bậc cao niên (ngày
xưa, các cụ thường không nhớ rõ ngày tháng sinh nên chỉ biết Tết đến là thêm 1
tuổi).
Lì xì
Lì xì ngày Tết (利是, phát âm theo người Quảng Đông:
lishi): người lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy đỏ, hay “hồng
bao”, gọi là “lì xì” với những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn. Theo cổ tích
Trung Quốc thì trong “hồng bao” có 8 đồng tiền (là Bát Tiên hóa thân) được đặt
dưới gối đứa trẻ để xua đuổi quỷ đến quấy nhiễu.
Tín ngưỡng Tết
Xin chữ đầu xuân
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bầy mực tầu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
(Vũ Đình Liên)
Đầu năm thường gắn với việc cầu xin những điềm lành, việc
lành trong ao ước của con người qua những cuộc hành hương về nơi linh thiêng nhất.
Xin chữ là một trong những hoạt động tâm linh ấy.
Việc mang ý nghĩa này có ở nhiều nơi trên khắp mọi miền đất
nước. Từ Bắc chí Nam, từ xuôi lên ngược, chẳng phân biệt giàu nghèo, sang hèn…
ta thường bắt gặp những gương mặt giống nhau ở sự thành tâm của người xin chữ
trước người cho chữ. Ngày xưa là chữ Nho, ngày nay vẫn là chữ Nho, lại có thêm
cả chữ Ta nữa.
Các thầy đồ Hán học và Quốc ngữ học tha hồ thả hồn theo nét
bút mà tặng lại cho người xin cái tâm, cái tài của mình được gửi qua nét chữ và
nội dung của chữ theo ước nguyện của người xin. Chưa có ai bán chữ, chỉ có người
mua giấy để xin chữ. Người cho chữ vẫn có lộc nhưng tinh tế hơn. Việc tưởng như
không bình thường nhưng lại thể hiện được nét thanh tao của công việc. Các thầy
đồ không phải bận bịu và hệ lụy vào chuyện giá cả, tiền nong để đủ thanh thản
và toàn tâm trong công việc cho chữ mang vẻ thánh thiện này.
Việc xin chữ đầu năm lâu nay đã có và ngày một thịnh hành,
nó đang trở thành phong tục đẹp của người Việt Nam mỗi độ xuân về Tết đến. Tại
Hà Nội, việc này diễn ra ở nhiều nơi: trong nhà riêng của một số thầy đồ có tiếng
văn hay chữ tốt, trên đường phố nơi có khoảng hè rộng rãi và nhiều người qua lại.
Chỗ có vẻ ấn tượng nhất là trước sân Miếu Văn, khoảng hè phố đường Bà Triệu, đoạn
giao cắt với đường Trần Hưng Đạo… Xin chữ là một nét đẹp văn hóa cần phát huy.
Chỉ một chữ treo trước mặt mà có ý nghĩa về đạo đức và đời sống đối với những
con người cụ thể sẽ giá trị hơn nhiều những lời nói sáo rỗng.
http://lichvansu.wap.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét